Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

Kinh Dịch

 sim số đẹp
Theo quan nệm của người đông dương, thế giới được hình thành bởi Vô Cực rồi đến thái cực
Thái cực sinh lưỡng nghi (lưỡng nghi gồm âm(--) và dương(-))
Lưỡng nghi sinh tứ tượng (Tứ tượng gồm: bốn phương đông-tây-nam-bắc hoặc chu tước-huyền vũ-thanh long-bạch hổ hoặc bốn mùa xuân-hạ-thu-đông...)
Tứ tượng sinh bát quái (bát quái gồm tám quẻ: trong hậu thiên bát quái gồm càn, khảm , cấn , chấn, tốn, ly, không, đoài. trong tiên thiên bát quái gồm: càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, chấn, khôn)

Kinh Dịch (giản thể: 易经; phồn thể: 易經, bính âm: Yì Jīng; IPA Quảng Đông: jɪk gɪŋ; Việt bính Quảng Đông: jik ging; các kiểu Latinh hóa khác: I Jing, Yi Ching, Yi King) là bộ sách kinh điển của Trung Hoa. Nó là một hệ thống tư tưởng triết học của người Á Đông cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch) (Xem Triết học dưới đây). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh...v.v...

Lịch sử

  • Kinh Dịch bắt đầu ra đời từ vua Phục Hy, lúc ấy Hoàng Hà có con long mã hiện hình lưng nó có khoáy thành đám, từ một đến chín, vua Phục Hy coi những khoáy đó, mà hiểu được lẽ biến hóa của vũ trụ, mới đem lẽ đó vạch ra thành nét. Đầu tiên vạch một nét liền (tức là vạch lẻ), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Dương, và một nét đứt (tức là vạch chẵn), để làm phù hiệu (tượng trưng) cho khí Âm. Hai cái vạch đó gọi là hai Nghi. Trên mỗi nghi thêm một nét nữa, thành ra bốn cái hai vạch, gọi là bốn Tượng. Trên mỗi Tượng lại vạch thêm một vạch nữa, thành ra tám cái ba vạch, gọi là tám Quẻ (tức là quẻ đơn). Sau cùng Phục Hy lại đem quẻ nọ chồng lên quẻ kia, thành ra sáu mươi tư cái sáu vạch, gọi là sáu mươi tư Quẻ (tức là quẻ kép). Từ thời Phục Hy đến cuối nhà Thương Kinh Dịch vẫn chỉ là những vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu chữ nghĩa gì cả.
  • Sang tới đầu nhà Chu, Chu Văn Vương mới đem những Quẻ của Phục Hy mà đặt từng tên và diễn thêm lời ở dưới mỗi quẻ để nói về sự lành dữ của cả quẻ, như chữ nguyên hanh lợi tẫn mã chi trinh ở quẻ Khôn v.v... Lời đó gọi là Lời Quẻ (quái từ), hay lời thoán (thoán từ).
  • Rồi sau đó Chu Công tức Cơ Đán (con trai thứ Văn Vương), lại theo số vạch của các quẻ mà chia mỗi quẻ ra làm sáu phần, mỗi phần gọi là một Hào, và dưới mỗi hào đều có thêm một hoặc vài câu, để nói về sự lành dữ của từng hào, như câu Sơ Cửu: tiềm long vật dụng hay câu Cửu Nhị: hiện long tại điền trong quẻ Kiền và câu Sơ Lục lý sương kiên băng chí hay câu Lục Tam: Hàm chương khả trinh trong quẻ Khôn... Lời đó gọi là lời hào (Hào từ) vì phần nhiều nó căn cứ vào hình tượng của các hào, cho nên nó còn gọi là (Lời tượng).
  • Tiếp đến Khổng Tử lại soạn ra sáu thứ nữa, là Thoán truyện, Tượng truyện, Văn ngôn, Hệ từ truyện, Thuyết quái, Tự quái, Tạp quái. Thoán truyện có hai thiên: Thượng Thoán và Hạ Thoán; Tượng truyện có hai thiên: Thượng và Hạ Tượng; Hệ từ cũng có hai thiên: Thượng Hệ và Hạ Hệ; tất cả mười thiên, thường gọi là Thập dực (mười cánh). Sáu thứ đó tuy đều tán cho ý nghĩa Kinh Dịch rộng thêm, nhưng mỗi thứ có một tính cách.
Trình Di nói: Rất huyền vi là Lý, rất tỏ rõ là Tượng, thể chất và công dụng vẫn là một nguồn, huyền vi và tỏ rõ không hề cách nhau, xem sự hội thông, để thi hành điển lễ của nó, thì Lời không có cái gì không đủ. Cho nên kẻ khéo học dịch, tìm kiếm về Lời, phải tự chỗ gần trước đã. Nếu mà khinh rẻ chỗ gần thì không phải là kẻ biết nói Kinh Dịch. Còn sự do Lời mà biết được Ý thì cốt ở người.
Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi là khởi nguồn của Kinh Dịch, đó là Âm và Dương, Dương được ghi lại bằng vạch liền (-) còn Âm vạch cách đoạn (--)
Tứ tượng
Tượng là dùng hai Nghi chồng lên nhau và đảo chỗ, vì thế được Tứ Tượng:
Quẻ đơn
Tứ Tượng chỉ có hai vạch chồng lên nhau, người ta chồng tiếp một vạch nữa lên (là có ba vạch). Được tám hình thái khác nhau gọi là Bát Quái (quẻ đơn) 
Quẻ kép
Quẻ kép (còn gọi là trùng quái) là đem những quẻ đơn chồng lên nhau, được sáu mươi tư hình thái khác nhau, đó là Sáu mươi tư quẻ.
Nếu có thể người ta chồng hai quẻ kép lên nhau sẽ được 64 x 64 quẻ nữa. Nhưng có lẽ trí tuệ của con người chưa thể hiểu được những Quẻ đó, vì vậy tạm dừng lại ở 64 quẻ kép. Tiêu Diên Thọ có sáng kiến chồng 64 thẻ lên nhau tạo thành 64x64=4096 quẻ (mỗi quẻ mới gồm 12 hào), như thế quá nhiều nên ít ai theo[3].

Cấu trúc
Các biểu tượng của Kinh Dịch là nằm trong tập hợp của 64 tổ hợp của các đường trừu tượng gọi là quẻ (卦 guà). Mỗi quẻ bao gồm 6 hào (爻 yáo) được biểu diễn dưới dạng các đoạn thẳng nằm ngang; mỗi hào này có thể là Dương (đường liền nét) hay Âm (đường đứt nét bao gồm hai đoạn thẳng cách nhau một khe nhỏ). Với sáu đoạn thẳng này được đặt lên nhau từ dưới lên trên trong mỗi quẻ suy ra có 26 hay 64 tổ hợp của hào và như vậy có 64 quẻ.
Mỗi quẻ được cho là tổ hợp của hai tập hợp con, mỗi tập con gồm ba đường gọi là quái (卦 guà). Như vậy có 23 hay 8 quái khác nhau.
Mỗi quẻ đại diện cho một trạng thái, tiến trình hay sự thay đổi có thể xảy ra. Khi quẻ được gieo bằng một trong những phương thức của bói toán bằng Kinh Dịch thì mỗi một đường (hào) có thể là tĩnh hoặc động. Hào động có thể có sự thay đổi từ Âm sang Dương hay ngược lại để tạo thành một quẻ khác, việc giải nghĩa của quẻ được gieo ban đầu dựa trên sự cân nhắc và xem xét các thay đổi đó.
Các phương pháp truyền thống để gieo quẻ sử dụng số ngẫu nhiên để sinh ra quẻ, vì thế 64 quẻ này là không đồng nhất xét về xác suất.
Có một số hình thức khác nhau sắp xếp quái và quẻ. Bát quái (八卦 bā gùa) là sự sắp xếp của các quái, thông thường là trên gương hoặc đĩa. Truyền thuyết cho rằng Phục Hi đã tìm thấy bát quái được viết trên mai rùa (Xem Hà Đồ). Kiểu sắp xếp tám quái dựa trên suy diễn này gọi là Tiên thiên bát quái.
Sự sắp xếp của vua Văn Vương được gọi là Hậu thiên bát quái. (Xem Lạc Thư)


Thành phần hợp thành của quẻ

Vạch liền là Dương, tượng của mặt trời. Vạch đứt là Âm, tượng của mặt trăng. Mỗi một vạch (liền hoặc đứt) là một hào. Các thành phần này được biểu diễn trong một biểu tượng hình tròn chung (☯), được biết đến như Thái Cực đồ (☯) (太極圖 taijitu), nhưng nói chung người ta gọi tắt là đồ Âm-Dương (陰陽 yin-yang), miêu tả quan hệ giữa hai trạng thái của mọi thay đổi, chuyển dịch: khi Dương đạt tới cực đỉnh thì Âm bắt đầu phát sinh và ngược lại. Thái Cực đồ cũng là nguyên lý phát sinh Âm-Dương.
Vô Cực sinh Thái Cực
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng
Tứ Tượng sinh Bát Quái
Bát Quái sinh vô lượng
Trong đó:
  • Vô Cực tương đương trong Lão giáo là Vô Vi - có thể coi là hư vô.
  • Thái Cực có thể tạm coi như trạng thái cân bằng khi vũ trụ hình thành.
  • Lưỡng Nghi là hai thành phần Âm và Dương.
  • Tứ Tượng là Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm.
Trong danh sách sau, quái và quẻ được biểu diễn bằng cách sử dụng các quy ước thông thường trong soạn thảo văn bản theo chiều ngang từ trái qua phải, với ký hiệu '|' cho Dương và ':' cho Âm. Lưu ý rằng, biểu diễn trong thực tế của quái và quẻ là các đường theo chiều đứng từ thấp lên cao (có nghĩa là để hình dung ra quái hay quẻ trong thực tế, ta cần phải quay đoạn văn bản biểu diễn chúng ngược chiều kim đồng hồ một góc 90°).
Có tám quái hay bát quái (八卦 bāguà) tạo thành do tổ hợp chập ba của Âm và/hoặc Dương:
SốQuáiTênBản chất tự nhiênNgũ hànhĐộ số theo Hà đồ, Lạc thưHướng theo Tiên Thiên/Hậu Thiên Bát Quái
1||| (☰)Càn (乾 qián)Trời (天)dương kim9nam/tây bắc
2||: (☱)Đoài (兌 duì)Đầm (hồ) (澤)âm kim4đông nam/tây
3|:| (☲)Ly (離 )Hỏa (lửa) (火)âm hỏa7đông/nam
4|:: (☳)Chấn (震 zhèn)Sấm (雷)dương mộc2đông bắc/đông
5:|| (☴)Tốn (巽 xùn)Gió (風)âm mộc6tây nam/đông nam
6:|: (☵)Khảm (坎 kǎn)Nước (水)dương thủy1tây/bắc
7::| (☶)Cấn (艮 gèn)Núi (山)dương thổ8tây bắc/đông bắc
8::: (☷)Khôn (坤 kūn)Đất (地)âm thổ3bắc/tây nam
Ba hào dưới của quẻ, được gọi là nội quái, được coi như xu hướng thay đổi bên trong. Ba hào trên của quẻ, được gọi là ngoại quái, được coi như xu hướng thay đổi bên ngoài (bề mặt). Sự thay đổi chung của quẻ là liên kết động của những thay đổi bên trong và bên ngoài. Vì vậy, quẻ số 13 (|:||||) Thiên Hỏa đồng nhân, bao gồm nội quái |:| (Ly hay Hỏa), liên kết với ngoại quái ||| (Càn/Trời).
Bát quái nạp vào Hà Đồ và 8 đường kinh nạp vào Hà Đồ theo tính chất ngũ hành tương ứng được minh họa như sau:

Biểu đồ các quái

Ngoại quáiNội quái|||Càn
Trời
|::Chấn
Sấm
:|:Khảm
Nước
::|Cấn
Núi
:::Khôn
Đất
:||Tốn
Gió
|:|Ly
Hỏa
||:Đoài
Đầm
|||Càn1345261191443
|::Chấn255132724422117
:|:Khảm6402947596447
::|Cấn3362395215535631
:::Khôn12168232203545
:||Tốn4432481846575028
|:|Ly1355632236373049
||:Đoài1054604119613858

64 quẻ

Dưới đây là sáu mươi tư quẻ của Kinh Dịch.
Các quẻ từ số 01 đến số 30 được gọi là Thượng Kinh, bắt đầu với hai quẻ Càn (trời), Khôn (đất) nên phần này đôi khi gọi là "đạo của Trời Đất".
Các quẻ từ số 31 đến số 64 được gọi là Hạ Kinh, bắt đầu với hai quẻ Hàm (tình yêu), Hằng (vợ chồng) nên phần này đôi khi gọi là "đạo của vợ chồng".
Tên gọi các quẻ: tên gọi của mỗi quẻ gồm 3 phần, bắt đầu với tên của các quẻ đơn tạo nên nó, đầu tiên là ngoại quái rồi đến nội quái, phần cuối của tên chỉ ý nghĩa của quẻ. Ví dụ quẻ Thủy Hỏa Ký Tế:
  • thủy chỉ ngoại quái: Khảm (nước);
  • hỏa chỉ nội quái: Li (lửa);
  • kí tế chỉ ý nghĩa của quẻ: đã xong, đã hoàn thành, đã qua sông;
ví dụ khác là quẻ Địa Sơn Khiêm:
  • địa chỉ ngoại quái: Khôn (đất);
  • sơn chỉ nội quái: Cấn (núi);
  • khiêm chỉ ý nghĩa của quẻ: khiêm nhường.
  1. |||||| Thuần Càn (乾 qián)
  2.  :::::: Thuần Khôn (坤 kūn)
  3. |:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)
  4.  :|:::| Sơn Thủy Mông (蒙 méng)
  5. |||:|: Thủy Thiên Nhu (需 )
  6.  :|:||| Thiên Thủy Tụng (訟 sòng)
  7.  :|:::: Địa Thủy Sư (師 shī)
  8.  ::::|: Thủy Địa Tỷ (比 )
  9. |||:|| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù)
  10. ||:||| Thiên Trạch Lý (履 )
  11. |||::: Địa Thiên Thái (泰 tài)
  12.  :::||| Thiên Địa Bĩ (否 )
  13. |:|||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén)
  14. ||||:| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu)
  15.  ::|::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān)
  16.  :::|:: Lôi Địa Dự (豫 )
  17. |::||: Trạch Lôi Tùy (隨 suí)
  18.  :||::| Sơn Phong Cổ (蠱 )
  19. ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín)
  20.  ::::|| Phong Địa Quan (觀 guān)
  21. |::|:| Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè)
  22. |:|::| Sơn Hỏa Bí (賁 )
  23.  :::::| Sơn Địa Bác (剝 )
  24. |::::: Địa Lôi Phục (復 )
  25. |::||| Thiên Lôi Vô Vọng (無妄 wú wàng)
  26. |||::| Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)
  27. |::::| Sơn Lôi Di (頤 )
  28.  :||||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò)
  29.  :|::|: Thuần Khảm (坎 kǎn)
  30. |:||:| Thuần Ly (離 )
  31.  ::|||: Trạch Sơn Hàm (咸 xián)
  32.  :|||:: Lôi Phong Hằng (恆 héng)
  33.  ::|||| Thiên Sơn Độn (遯 dùn)
  34. ||||:: Lôi Thiên Đại Tráng (大壯 dà zhuàng)
  35.  :::|:| Hỏa Địa Tấn (晉 jìn)
  36. |:|::: Địa Hỏa Minh Di (明夷 míng yí)
  37. |:|:|| Phong Hỏa Gia Nhân (家人 jiā rén)
  38. ||:|:| Hỏa Trạch Khuê (睽 kuí)
  39.  ::|:|: Thủy Sơn Kiển (蹇 jiǎn)
  40.  :|:|:: Lôi Thủy Giải (解 xiè)
  41. ||:::| Sơn Trạch Tổn (損 sǔn)
  42. |:::|| Phong Lôi Ích (益 )
  43. |||||: Trạch Thiên Quải (夬 guài)
  44.  :||||| Thiên Phong Cấu (姤 gòu)
  45.  :::||: Trạch Địa Tụy (萃 cuì)
  46.  :||::: Địa Phong Thăng (升 shēng)
  47.  :|:||: Trạch Thủy Khốn (困 kùn)
  48.  :||:|: Thủy Phong Tỉnh (井 jǐng)
  49. |:|||: Trạch Hỏa Cách (革 )
  50.  :|||:| Hỏa Phong Đỉnh (鼎 dǐng)
  51. |::|:: Thuần Chấn (震 zhèn)
  52.  ::|::| Thuần Cấn (艮 gèn)
  53.  ::|:|| Phong Sơn Tiệm (漸 jiàn)
  54. ||:|:: Lôi Trạch Quy Muội (歸妹 guī mèi)
  55. |:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)
  56.  ::||:| Hỏa Sơn Lữ (旅 )
  57.  :||:|| Thuần Tốn (巽 xùn)
  58. ||:||: Thuần Đoài (兌 duì)
  59.  :|::|| Phong Thủy Hoán (渙 huàn)
  60. ||::|: Thủy Trạch Tiết (節 jié)
  61. ||::|| Phong Trạch Trung Phu (中孚 zhōng fú)
  62.  ::||:: Lôi Sơn Tiểu Quá (小過 xiǎo guò)
  63. |:|:|: Thủy Hỏa Ký Tế (既濟 jì jì)
  64.  :|:|:| Hỏa Thủy Vị Tế (未濟 wèi jì)
Tai tro boi sim so dep

0 nhận xét:

Đăng nhận xét