Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

Nguồn Gốc Lịch Sử Phong Thủy

SỰ HÌNH THÀNH CỔ SƯA

 sim so dep

 sim so dep
Đối với người Trung Hoa, gió và nước (phong và thủy) là những nhân tố quan trọng. Những cơn gió nhẹ mang ý nghĩa là mùa màng bội thu và gia súc đầy đàn. Sông suối cung cấp sự sóng và đảm bảo cho quần thể định cư chống lại khô hạn. Mặt khác, những cơn gió hung hãn phá hoại mùa màng, nước tù đọng sinh ra dịch bệnh và những dòng nước dữ là nguyên nhân gây nên tai họa. Người ta quan niệm gió, nước, mưa, sương, mù, mặt trời và mây là khí của trời đất. Khí chuyên động mang đến sinh lực và khí tù đọng mang lại hủy hoại.

Phục Hy
Phục Hy, người được xem là khai sinh ra thuật bói toán của Trung Quốc do phát hiện ra Hà đồ (mẫu biểu hình tượng xuất hiện  Lạc hà) - đó chính là Tiền Thiên Bái Quát. Phục Hy còn được xem là người có khả nàng hiểu được muông thú. Trong các hình vẽ, Phục Hy thường mặc áo bảng da hố và có nhiều động vật vây quanh như rùa và rắn. Có truyền thuyết cho rằng khả nàng giao tiếp với muông thú đã khiên cho Phục Hy khám phá ra Hà đồ. Tiền Thiên Bát Quái viết trên lưng ngựa xuất hiện từ đáy Lạc hà để trình lên cho Phục Hy xem. Hà đồ tượng trưng cho bản chất ẩn chứa của vạn vật. Hiểu được Hà đồ là biết được liên kết bí ẩn giữa Vũ trụ và con người.


Hà đồ trên lưng ngựa

Lạc thư trên mai rùa
Một vị vua huyền thoại khác là Hạ Vũ. 
Tương truyền Hạ Vũ là người xấu xí và bị tật què. Khi vua Thuấn tìm người hiền đê trị thủy đang đe dọa, Hạ Vũ là người ít có hy vọng được chọn lựa. Một số quý tộc gia được cử đi trong đó có cả con cua vua Thuấn, nhưng đều thất bại; Hạ Vũ được giao công việc đó và ông được truyền lại ngôi vua và trớ thành người lãnh đạo thiên hạ. Truyền thuyết cho rằng Hạ Vũ đã nhận dược phép trị thủy từ một vị thần. Ông nhanh chóng tập hợp quần chúng đào kinh, đắp đê rồi cuối cùng trị được nạn lụt lội. Khi nước sông rút xuống, Hạ Vũ thấy rùa xuất hiện trên sông. Trên mai rùa có đồ hình. Đồ hình này chính là Lạc Thư xuất hiện từ Lạc Hà và đó là mẫu gốc của Hậu Thiên Bát quái. 

Khác với Tiền Thiên Bát quái của Hà đồ mô tả trật tự lý tưởng của vạn vật (tính vĩnh hằng tiềm án), Hậu Thiên Bát quái cua Lạc thư lại dược sử dụng đê dự đoán các hiện tượng biến đồi không ngừng. Khi Hạ Vũ nối nghiệp vua Thuấn, ông cũng có khả năng nắm bắt được quy luật biến đổi của Trời Đất, phong thủy và vận hành thay đôi của các mùa.
Dưới sự cai trị của các vương triều nối tiếp, người Trung Hoa dần dần định cư và xây dựng các đỏ thị lớn. Hạ Vũ sáng lập ra nhà Hạ và truyền lại hơn bốn trăm năm trước khi bị nhà Thương soán ngôi. Nhà Thương sau hơn sáu trăm năm tồn tại lại trớ nên hủ bại và tha hóa. Trụ Vương, vua cuối cùng của nhà Thương, tự xem minh ngang hàng với thần thánh và chế nhạo cả thần linh. Thời kỳ đó lại xuất hiện một nhà quý tộc tên là Cơ Xương. Cơ Xương sau này có tên là Văn Vương đa đánh bại nhà Thương và lập ra nhà Chu. Cơ Xương rất am tường về thuật bói quẻ. Với khả năng cua mình, Hà đồ và Lạc thư là những công cụ hữu ích dự đoán sự vật. Cơ Xương vận dụng hiểu biết về tính cách chu kỳ của vũ trụ để phát triển bát quái của Lạc thư, từ tám qué tam hào thành sáu mươi bốn quẻ lục hào. Truyền thuyết nói rằng Cơ Xương có thể đoán biết dược thời gian bị giam cầm của bản thân, cái chết của người con trai, ngày trở về cố hương của ông và sự sụp đổ sau cùng của người đã cầm tù và giết con trai ông. Giúp sức với Văn Vương chống lại nhà Thương là Khương Tử Nha, người rất am tường về thuật bói toán. Chính ảnh hưởng của Khương Tử Nha đã tác động đến Văn Vương hình thành nên hệ thống quẻ dự đoán trong Kinh Dịch.
Ngày nay có ba loại dịch được ghi chép lại theo các sử gia Trung Quốc : Liên Sơn Dịch của nhà Hạ, Quy Tàng Dịch tương truyền được viết bơi vị vua đầu tiên của nhà Thương khoảng năm 2200 trước CN và Chu Dịch do Văn Vương viết ra vào khoáng năm 1100 trước CN. Kinh Dịch ngày nay là các phần của Chu Dịch được Khống Tử tổng hợp lại vào thế kỷ thứ sáu trước CN. Đối với Liên Sơn Dịch và Quy Tàng Dịch, tri thức duy nhất còn sót lại là từ phần tham khảo do các sử gia đời Hán và Tần biên soạn.
Nắm bắt ngũ hành của các vị vua thời Thượng cố có thể xuất phát từ khả năng am hiểu về địa hình và khí tượng. Sương mù, mây, mưa đều có liên quan đến các đặc điểm địa lý và các vị vua đó đã sử dụng kiến thức này đế dự đoán một số hiện tượng. Một vị vua truyền thuyết nắm bắt được quy luật vận hành của đất là Hoàng Đế. Tương truyền Hoàng Đế bị lạc đường khi giao chiến với một kẻ có khả năng tạo ra sương mù bao phủ các thung lũng dưới núi. Cửu Thiên Huyền Nữ đã xuất hiện giúp Hoàng Đế và ban cho ông tri thức và cách sử dụng la bàn. Vận dụng la bàn Hoàng Đế đã đánh bại và bắt sống kẻ có đầy quyền năng kia.

Kiến thức và cách ứng dụng của la bàn phát triển vào thời nhà Chu. Cháu của Văn Vương nhận thấy giá trị cùa la bàn khi Chu Công sử dụng la bàn đế định hướng lúc bị lạc đi về nhà. Hoàng Đế nhà Chu đã kết hợp kiến thức về la bàn với Kinh Dịch và hình thành nên hệ thống dự đoán thiên địa. Với cách sử dụng la bàn và Tiền Thiên Bát quái, người ta có thế quyết định vị trí xây dựng lý tưởng cho một thành phố hay cung điện. Bằng công cụ tính toán này vị trí nào có địa khí tích tụ có thể được xác định và có thế tránh hướng của sát khí. Đây là tri thức nắm bắt Quy luật của Tiên Thiên. Vận dụng kiến thức về địa
hình, quỹ đạo vận hành của các tinh tú, và Hậu Thiên Bát quái, người ta có thể vạch ra các biện pháp xử lý các tình huống bất lợi. Đây là tri thức nắm bắt Quy luật của Hậu Thiên. Với tri thức về các quy luật của Tiền Thiên và Hậu Thiên, các vị vua đã biết được những bí án của vũ trụ và xác định ra vị trí nào có lợi cũng như khống chế được sát khí. Các vị vua đó quả thật là những người nắm được quy luật của Dịch.




Các hoàng đế cổ đại Trung Hoa không những là người nắm dược quy luật của thổ địa mà còn biết quan sát thiên văn biết hướng chuyên động của các tinh tú và vận dụng trí thức này viết thành hệ thống lịch. Tương truyền hoàng đế đã ra lệnh cho các thiên tướng của mình nghiên cứu quan sát các tinh tú. Hệ thống lịch sơ khai đã hình thành trong thời kỳ này. Vài trăm năm sau trong thời nhà Hạ cách tính toán phức tạp hơn về mặt trăng, mặt trời và các chòm sao được hình thành, do đó lịch được chỉnh sửa. Sang thời kỳ nhà Thương (giữa thế kỷ mười tám và mười hai trước CN), chu kỳ sáu mươi ngày được sử dụng. Chuyển động của các chòm sao ngày nay được sắp xếp thành Mười Thiên Can và Mười hai Địa Chi. Mỗi ngày được tượng trưng bằng sự kết hợp cua một can và chi theo thứ tự hàng loạt. Chư kỳ sáu mươi ngày được áp dụng cho năm hình thành nên sáu chu kỳ mỗi năm của ba trăm sáu mươi ngày.
Vào thời nhà Chu (thế kỷ thứ mười hai - thứ ba trước CN) Thiên Can kết hợp với Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và mười hai Địa chi ứng với mười hai tháng. Vào năm 600 trước CN (thời đại của Khổng Tử và Lão Tử) mười hai con giáp ứng với mười hai Địa chi.

Giáp       Tý 
Ất           Sửu 
Bính       Dần 
Đinh       Mão 
Mậu       Thìn 
Kỷ        Tỵ
Canh      Ngọ 
Tân       Mùi 
Nhâm    Thân 
Quý       Dậu 
              Tuất 
              Hợi 
Mười thiên can và mười hai địa chi nếu kết hợp từng đôi giữa thiên can địa và chi cho đến khi thiên can thứ nhất và địa chi thứ nhất lặp lại, ta sẽ có sáu mươi bốn cặp hình thành nên sáu mươi năm của chu kỳ sáu mươi niên vận


Vào thời Xuân Thu (thế kỷ thứ tám - thứ năm trước CN) La bànKinh Dịch và Lịch - ba thành tố cốt lỗi của thuật bói toán đã trở thành một phần của học thuật Trung Quốc.

Tài trợ bởi sim so dep

0 nhận xét:

Đăng nhận xét